VietnameseKorean

PostHeaderIcon Facebook và những thành tựu đạt được

Những thành tựu đạt được của Facebook

Ước tính các doanh nghiệp chi 900 triệu USD tại Mỹ và 335 triệu USD ngoài nước Mỹ cho quảng cáo trên các mạng xã hội trong năm 2007. Facebook và MySpace là hai mạng xã hội có doanh thu từ quảng cáo lớn nhất Mỹ trong các site mạng xã hội; cả hai chiếm 72% doanh số quảng cáo trực tuyến, với 125 triệu USD thuộc về Facebook. Tin tốt lành này dấy lên cuộc đua thu hút marketing trực tuyến từ các mạng xã hội. Với xu hướng cuộc sống số, hai mạng xã hội này có thể chiếm 75% thị phần trong năm 2008


Tính đến thời điểm hiện tại, Facebook có:

 

  • 400 triệu người dùng, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm 305%
  • Đứng thứ 2 toàn cầu về số phút truy nhập – 20 tỉ phút ( sau Yahoo!, Live và YouTube), tỉ lệ tăng trưởng hàng năm 363%
  • Có 67 triệu người hoạt động tích cực, 250.000 người đăng ký mỗi ngày – kể từ 1/2007, hơn 50% thành viên tích cực truy nhập hàng ngày
  • 55.000 mạng trường trung học, đồng nghiệp, nghề nghiệp, vùng miền ( hơn 50% không thuộc các trường đại học), tuổi của các thành viên tăng lên trên 25 nhanh nhất, có 85% thị phần là sinh viên đại học Mỹ
  • 14 triệu tấm ảnh được cập nhật mỗi ngày, 6 triệu nhóm thành viên tích cực trong site
  • Có 20.000 ứng dụng và 95% thành viên Facebook sử dụng ít nhất một ứng dụng
  • Những quốc gia tham gia tích cực nhất ngoài Mỹ bao gồm: Anh ( trên 8 triệu), Canada ( trên 7 triệu), Áo, Úc, Pháp, Thuỵ Điển, Phần Lan, Cô lôm bi a và Nam Phi

Tại sao Facebook lại thành công?
Mạng xã hội đã làm thay đổi suy nghĩ về sự hiện diện của con người. Internet với sức mạnh của nó kết hợp với các nguồn thông tin cá nhân đã tạo ra những nguồn thông tin quan trọng nhất – các yếu tố căn bản của mạng xã hội. Facebook thành công dựa vào sự nhạy bén trong việc đưa ra các dịch vụ trực tuyến đáp ứng nhu cầu của các hành vi xã hội ngoại tuyến.

Những nhân tố đem lại thành công của Facebook:

  • Cung cấp dịch vụ tiện ích trực tuyến để phục vụ các hành vi xã hội trong một cộng đồng ngoại tuyến. Facebook tạo ra môi trường cho các hoạt động trí tuệ, xoay quanh mối quan hệ giữa con người; cho phép chia sẻ quan điểm, suy nghĩ, thông tin và tương tác với nhau.
  • Hạn chế đăng ký thành viên ( và các hành vi khác) để tạo ra sự thèm muốn các dịch vụ trực tuyến ( tạo làn sóng đăng ký thông qua hình thức marketing truyền khẩu)
  • Facebook là tổng hợp của một chuỗi các cộng đồng vi mô đã được thâm nhập sâu
  • Xây dựng nhận thức thương hiệu mạnh dựa trên người dùng và quảng cáo, các sáng lập viên được sự tín nhiệm của các học viên ( trong thời gian khởi sự Facebook)
  • Facebook cung cấp một mạng xã hội được tiêu chuẩn hoá và tự điều khiển/ linh hoạt – một cổng dừng chân được cá nhân hoá cao phục vụ kết nối trực tuyến – người sử dụng có thể lập trình ra trang của riêng họ với các ứng dụng kéo-và-thả liên tục được tạo mới, có giao diện người sử dụng đơn giản, sạch, bảo mật và ổn định.
  • Người sử dụng thích được giới thiệu bản thân của họ và kết nối với bạn bè trong một môi trường được bảo vệ, nơi những người được họ tin tưởng và biết nằm trong mạng lưới của họ và họ không cảm thấy bị xâm hại hoặc cưỡng chế xem quảng cáo.
  • Quảng cáo của Facebook được cá nhân hoá và dựa trên tính truyền miệng, đàm luận.

Với Facebook, thương hiệu của các đơn vị quảng cáo có thể đo lường bởi tính cam kết của người tiêu dùng bằng các hoạt động mạng xã hội như liệt kê một thương hiệu như sự ưa thích, thêm một thương hiệu như bạn bè, đặt đoạn phim tài trợ nhằm mục đích marketing trên trang thông tin cá nhân và để một bình luận tại một trang sở hữu bởi một người làm marketing.

Để thành công marketing trong mạng xã hội không chỉ đơn thuần đo lường số click chuột hoặc giá trị thu được và chi phí của chiến dịch marketing. Mike Murphy, Quản lý lợi nhuận của Facebook nói “Một click có thể có giá trị hàng trăm click đối với một người làm marketing do tính lan truyền trên môi trường Internet … Chúng tôi tin rằng những chia sẻ mà một người bạn có thể làm trong mạng lưới bạn bè của họ có giá trị hơn nhiều những gì một thương hiệu có thể làm bằng việc so sánh giá trị thu được và chi phí bỏ ra trước một người dùng”.

Theo s2facebook.com

Để tôi làm thử xem sao




Mùa thu năm 2003, hai anh em Cameron và Tyler Winklevoss cùng người bạn tên Divya Narendra, tất cả đang là sinh viên năm cuối Đại học Harvard, cần tìm một lập trình viên chuyên thiết kế trang web để biến một ý tưởng của họ thành hiện thực. Đó là ý tưởng của Divya nảy sinh vào năm 2002: làm một mạng xã hội cho sinh viên và cựu sinh viên Harvard, dự tính đặt tên là HarvardConnections.com. 
Trước đó họ đã nhờ một sinh viên Harvard khác nhưng anh này từ chối và giới thiệu Mark Zuckerberg, một sinh viên năm thứ hai nhưng đã khá nổi tiếng vì đã xây dựng trang web Facemask. Facemask từng đẩy Mark vào chỗ gặp phiền toái vì trang web này chuyên lấy hình ảnh của sinh viên Harvard từ trang web chính thức của nhà trường rồi xếp từng cặp ảnh với nhau. 

Người xem có thể bình chọn ảnh của người nào là hấp dẫn hơn, rồi tổng hợp thành danh sách sinh viên Harvard theo mức độ hấp dẫn theo đánh giá của bạn bè. Facemask ngay lập tức trở thành một hiện tượng trong giới sinh viên, sau hai tuần có đến 22.000 lượt bình chọn. Trong lúc đó nhiều sinh viên Harvard khác nổi giận, lôi Mark ra trước hội đồng kỷ luật của sinh viên vì tội vi phạm an ninh mạng, vi phạm bản quyền, vi phạm tính riêng tư của cá nhân.



Lúc được giới thiệu làm ăn với ba người định khai sinh HarvardConnections, Mark đồng ý hẹn gặp. Tối ngày 30-11-2003, bốn người hẹn nhau tại một nhà ăn trong khuôn viên trường; Cameron, Tyler và Divya lần lượt trình bày ý tưởng của mình – xây dựng trang web HarvardConnections, lúc đầu giới hạn cho những ai có địa chỉ e-mail harvard.edu tham gia và sau đó mở rộng ra các trường đại học ở Mỹ.
Mark tỏ vẻ thích thú với ý tưởng này. Ngay tối hôm đó, Mark gửi e-mail cho ba người, nói rằng đã đọc những tài liệu họ vừa gửi và vì cấu trúc trang web không phức tạp lắm nên hứa sẽ bàn tiếp sau khi phác thảo xong hình hài trang web ngay tối mai. Ngày hôm sau, Mark gửi thư tiếp cho nhóm HarvardConnections, cho biết đã soạn xong hai trang đầu, phần đăng ký làm thành viên, đang sửa lỗi và sẽ thông báo tiếp khi trang web hoạt động hoàn chỉnh. 
Ngược lại với hai thư ban đầu này, chỉ mấy ngày sau đó, thư của Mark chuyển giọng, không còn sự hào hứng thực hiện ngay ý tưởng đã bàn mà tìm mọi lý do để trì hoãn, như bận học, bận làm bài tập. Mọi nỗ lực liên lạc của nhóm với Mark không thành công và cuối cùng đến ngày 8-1-2004, Mark gửi thư cáo lỗi với các lý do bận rộn và nói thêm là trang web chưa có đủ chức năng cần thiết để hấp dẫn người sử dụng. 
Nghiên cứu các thư từ e-mail trao đổi trong thời gian này, tờ Silicon Alley Insider kết luận đồng ý với cáo buộc của nhóm HarvardConnections là Mark Zuckerberg tìm cách trì hoãn việc phát triển mạng HarvardConnections để anh ta tự mình xây dựng một mạng tương tự và tung ra trước nhằm cạnh tranh. Tờ báo này cho biết các e-mail nói trên đã được công khai từ lâu sau vụ kiện; kết luận của họ còn dựa vào những tin nhắn trao đổi (chat) giữa Mark với bạn bè người thân trong giai đoạn này, như những cuộc trao đổi giữa Mark và bạn đồng lớp, người sau này trở thành đồng sáng lập viên của Facebook – Eduardo Saverin – vào ngày 7-12-2003. 

“Họ chọn nhầm người – haha”



Cựu tổng giám đốc PayPal thường được cho là nhà đầu tư đầu tiên của Facebook với khoản tiền là 500.000 đô-la vào tháng 9-2004, nhưng thật ra người tài trợ cho Mark ngay từ đầu là Eduardo. Đây là một sinh viên giàu có hay ít nhất bề ngoài của anh ta cho mọi người cảm giác như thế. Eduardo đồng ý bỏ ra 15.000 đô-la để đổi lại 30% cổ phần trong công ty Facebook sẽ thành lập. Và vào những ngày đầu khởi nghiệp đó, hai bên trao đổi tin nhắn thường xuyên. Mark kể cho Eduardo chuyện nhóm HarvardConnections mời anh tham gia như thế nào, xong rồi viết: “Nhưng họ đã chọn sai, haha. Họ chọn chính tớ để làm dự án này. Cho nên tớ sẽ trì hoãn để mạng này không thể làm xong cho đến khi cái dự án Facebook ra đời”. 
Như thế, tờ Silicon Alley Insider kết luận, trong vòng một tuần sau khi gặp nhóm HarvardConnections, Mark đã có ý tưởng tự mình phát triển một mạng xã hội tương tự và cũng đã đề ra kế hoạch ngăn cản đối thủ: trì hoãn việc lập trình dù được thuê thực hiện. 
Một vài tuần sau đó, Mark lại họp với bộ ba Cameron, Tyler và Divya nhưng không phải ở nhà ăn mà là khu nội trú của Mark. Phòng của Mark có hành lang hẹp nối với các phòng khác. Khi Cameron và Tyler ngồi xuống trong phòng của Mark, Cameron thoáng thấy ngoài hành lang một tấm bảng trắng có ghi dòng chữ Harvard Connection, loại bảng mà nhà lập trình thường dùng để vẽ sơ đồ ý tưởng trang web. Nhưng khi Cameron đứng lên bước ra để nhìn cho rõ thì Mark yêu cầu Cameron không được vào hành lang. 
Mark cũng thường xuyên trao đổi tin nhắn với một người bạn khác tên Adam D’Angelo. Cả hai học trường nội trú Phillips Exeter Academy và trong thời gian này, hai người hợp tác viết phần mềm nghe nhạc MP3 Synapse, có khả năng đọc sở thích của người sử dụng và đưa ra gợi ý thông minh. Tốt nghiệp trung học, Mark vào Harvard còn Adam vào trường Cal Tech và hai người duy trì liên lạc thường xuyên. Sau này Adam vào làm kỹ sư trưởng cho Facebook. 
Đọc những dòng trao đổi qua chat giữa hai người, Silicon Alley Insider một lần nữa kết luận Mark song song làm hai dự án, Facebook của riêng mình và cố ý trì hoãn HarvardConnections để tiêu diệt đối thủ tiềm năng. Mặc dù Adam khuyên Mark nên từ chối thẳng nhóm HarvardConnections, nhưng Mark cho rằng nhóm này rất có tiềm năng, cả về lập trình và tài chính hỗ trợ nên ngại nếu cả hai ra đời cùng một lúc thì tất cả đều thất bại. 

“Tớ sẽ chơi họ”

Ngày 14-1-2004, Mark lại họp với nhóm HarvardConnections, có vẻ như đây là lần gặp nhau cuối cùng. Lúc này Mark chưa làm xong Facebook nhưng đang nỗ lực hết sức, lấy tiền từ Eduardo để thuê máy chủ, đăng ký tên miền thefacebook.com… Vấn đề còn lại là có nên nói thẳng cho ba người kia chưa hay vẫn lần lữa chờ cho xong mạng Facebook. Mark đã hỏi ý kiến của một người bạn và người này khuyên “không nên làm điều xấu cho ai cả” nhưng Mark vẫn khăng khăng: “Tớ sẽ chơi họ”. Lần gặp ngày 14-1, Mark vẫn chưa từ chối hẳn dự án HarvardConnections trong khi nhấn mạnh anh không có thời gian làm ngay. Mark cũng không tiết lộ gì về Facebook. 
Ngày 4-2-2004, Mark công khai dự án Facebook, lúc đó có địa chỉ thefacebook.com; ngày 10-2-2004, Cameron gửi thư cho Mark, cáo buộc anh vi phạm hợp đồng và ăn cắp ý tưởng. Cuối tháng 5-2004, sau khi làm việc với hai nhà lập trình mới, nhóm HarvardConnections cũng cho ra đời mạng ConnectU, kết nối 15 trường với nhau nhưng không đạt được bất kỳ thành công nào. 

Thực tế



Sau khi Mark khai sinh Facebook, mạng xã hội này đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong giới sinh viên. Hè năm 2004, Mark bỏ học, chuyển sang California để điều hành Facebook toàn thời gian. Đến tháng 8-2005, mạng xã hội này chính thức chuyển địa chỉ từ thefacebook.com sang facebook.com sau khi mua lại địa chỉ này với giá 200.000 đô-la. Mọi chuyện sau đó về sự phát triển kỳ diệu của Facebook thì ai cũng biết. 
Tháng 10-2007, Microsoft cho biết họ đã mua 1,6% cổ phần Facebook với giá 240 triệu đô-la, tức tính ra tổng giá trị của Facebook là chừng 15 tỷ đô-la Mỹ. Cho đến nay Mark vẫn chưa bán Facebook cho ai và cũng chưa chịu niêm yết Facebook trên thị trường chứng khoán. Thông tin mới nhất cho rằng doanh thu hằng năm của Facebook có thể lên đến 1 tỷ đô-la nhờ quảng cáo. 
Về vụ kiện tụng xung quanh sự ra đời của Facebook, tờ Silicon Alley Insider cho rằng không có bằng chứng giấy trắng mực đen nào về hợp đồng hợp tác giữa Mark Zuckerberg và nhóm HarvardConnections. Những ràng buộc nếu có cũng chỉ ở dạng e-mail hay chat mà tòa án từng kết luận chỉ là “tán gẫu trong khu nội trú”. 
Cùng lúc với việc tiếp cận ý tưởng của nhóm HarvardConnections, Mark cũng đã thai nghén ý tưởng cho mạng xã hội Facebook, dù hướng đến cùng một đối tượng nhưng cách triển khai có nhiều khác biệt. Tuy nhiên, Mark đã cố ý trì hoãn việc thực hiện mạng HarvardConnections với ý đồ cạnh tranh. Vì thế Silicon Alley Insider kết luận khoản tiền bồi thường 65 triệu đô-la mà Facebook trả cho Cameron, Tyler và Divya là xứng đáng, thậm chí còn quá hào phóng vì thời gian diễn ra cuộc tranh cãi này chỉ kéo dài trong khoảng hai tháng trong khi Mark đã mất đến sáu năm mới xây dựng Facebook được như ngày nay. 



Tuy vậy, Silicon Alley Insider cũng chê trách Mark đã sử dụng những chiêu thức không hay ho gì khi sử dụng thông tin truy cập Facebook để xâm nhập vào tài khoản của các phóng viên của tờ báo sinh viên tại trường Harvard khi họ đang điều tra vụ kiện nói trên. 

(Theo TBVTSG)

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

 
TIN TỨC NỔI BẬT
HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN
12A03, Tầng 12, Khu A, Tòa nhà Indochina Park Tower, Số 4 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đakao, Quận 1, Tp. HCM
Hotline: 0935 339 669


 
THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG

1